Từ ngày 01/7/2024, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 bắt đầu có hiệu lực với nhiều quy định sửa đổi, bổ sung khác biệt với các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Một trong các quy định mới đáng chú ý tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 là việc cấm ngân hàng ép mua bảo hiểm không bắt buộc đi kèm khoản vay. Hãy cùng Luật Hợp Nhất tìm hiểu quy định này thông qua nội dung bài viết dưới đây.
1. Quy định về các tổ chức tín dụng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, tổ chức tín dụng được định nghĩa là “doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”. Tại khoản 38 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 có quy định định nghĩa các tổ chức tín dụng như sau:
“38. Tổ chức tín dụng là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.”
Như vậy, quy định về các tổ chức tín dụng tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật năm 2024 không có quá nhiều sự khác biệt. Trong các tổ chức tín dụng được quy định, tại quy định ở cả Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật năm 2024 đều có quy định ngân hàng là một loại tổ chức tín dụng.
Ngân hàng được định nghĩa tại khoản 2 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 như sau:
“2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.”
Tại khoản 21 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, ngân hàng được định nghĩa là “tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.
Có thể thấy, ngân hàng tại quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đều được định nghĩa bằng các quy định tương tự nhau.
2. Quy định về hành vi hành vi bán bảo hiểm không bắt buộc đi kèm khoản vay của ngân hàng
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022, kinh doanh bảo hiểm được quy định là “hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.”
Căn cứ quy định nêu trên, chỉ có doanh nghiệp bảo hiển, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô mới được phép cung cấp các sản phẩm bảo hiểm. Vì vậy, ngân hàng là một tổ chức tín dụng không có chức năng cung cấp sản phẩm bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm do ngân hàng tư vấn và bán cho khách hàng nếu có chính là sản phẩm bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm và ngân hàng cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng với tư cách là đại lý bảo hiểm.
Hành vi bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức là một trong các hành vi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 nghiêm cấm các tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 15 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.
Ngoài hành vi bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức, Điều 15 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 còn quy định một số hành vi khác bị nghiêm cấm đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, được quy định như sau:
“1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ngoài hoạt động ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Tổ chức, cá nhân không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán.
3. Tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
4. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
5. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức.”
Quý bạn đọc có thắc mắc hoặc có nhu cầu cần được tư vấn về vấn đề nêu trên vui lòng liên hệ địa chỉ email: info@hnlaw.com.vn, SĐT: 0972362884 của Công ty Luật TNHH Hợp Nhất để được hướng dẫn thêm!
————————-
Người thực hiện: Nguyễn Việt Hà
Tham vấn bởi: CVCC. Tô Thị Nhung
(Bản quyền tác giả và sở hữu chuyên đề thuộc về Công ty Luật TNHH Hợp Nhất)