Trong xã hội hiện nay rất phổ biến việc cha mẹ tặng cho tài sản thường là nhà, quyền sử dụng đất cho con mình với mong muốn được cậy nhờ con cái, được chăm sóc lúc tuổi già. Tuy nhiên cũng nhiều người có sự lo lắng, đắn đo về việc nếu sau khi đã tặng cho tài sản mà con cái lại bất hiếu, hư hỗn không chăm lo cho mình, thậm chí đuổi đánh cha mẹ ra khỏi chính ngôi nhà là tài sản được cha mẹ tặng cho thì có thể đòi lại những tài sản đã tặng cho đó hay không. Hãy cùng Luật Hợp Nhất tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề này thông qua bài viết dưới đây.
1. Quy định về tặng cho tài sản
Căn cứ tại Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Hợp đồng tặng cho tài sản như sau:
“Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.”
Như vậy, trong quan hệ tặng cho tài sản, chỉ bên nhận tài sản và quyền sở hữu tài sản được lợi và bên tặng cho tài sản không yêu cầu bên nhận tặng cho phải đền bù bất kỳ khoản lợi vật chất nào.
Việc tặng cho tài sản được phân loại theo loại tài sản được tặng cho, bao gồm tặng cho động sản và tặng cho bất động sản. Hiện nay các trường hợp cha mẹ tặng cho tài sản cho con đa phần là tặng cho bất động sản với tài sản được tặng cho là nhà, quyền sử dụng đất.
Hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực hoặc đăng ký chuyển quyền sử dụng theo quy định tại Điều 459 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.
Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”
2. Trường hợp cha mẹ có thể đòi lại tài sản đã tặng cho
Theo quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản, từ thời điểm hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực pháp luật, bên nhận tặng cho có quyền sở hữu toàn bộ đối với tài sản tặng cho và bên tặng cho không có quyền đòi lại các tài sản này. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp bên tặng cho có thể nhận lại tài sản đã tặng cho của mình một cách hợp pháp.
Trường hợp 1: Hợp đồng tặng cho có điều kiện và bên tặng cho vi phạm các điều kiện đã nêu
Tặng cho tài sản có điều kiện được quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
“1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, nếu khi tặng cho tài sản bên tặng cho có đưa ra điều kiện để người nhận tặng cho thực hiện thì bên nhận tặng cho chỉ được nhận tài sản khi đáp ứng các điều kiện đã được đưa ra. Nếu bên nhận tặng cho tài sản mà không thực hiện các điều kiện này thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản đã tặng cho.
Tuy nhiên, các điều kiện này phải được đưa ra khi ký kết và được ghi nhận trong hợp đồng tặng cho thì bên tặng cho mới có quyền đòi lại tài sản khi các điều kiện đó không được đáp ứng.
Trường hợp 2: Hợp đồng tặng cho tài sản bị vô hiệu
Hợp đồng tặng cho tài sản cũng là một giao dịch dân sự theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi giao dịch dân sự không phát sinh hiệu lực pháp luật, các quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không bị thay đổi, do đó, quyền sở hữu tài sản đối với tài sản tặng cho của bên tặng cho tài sản vẫn giữ nguyên không bị thay đổi khi hợp đồng tặng cho tài sản bị vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.”
Như vậy, các điều kiện để hợp đồng tặng cho tài sản là bất động sản có hiệu lực bao gồm:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
- Hợp đồng được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và được đăng ký theo quy định.
Quý bạn đọc có thắc mắc hoặc có nhu cầu cần được tư vấn về vấn đề nêu trên vui lòng liên hệ địa chỉ email: info@hnlaw.com.vn, SĐT: 0972362884 của Công ty Luật TNHH Hợp Nhất để được hướng dẫn thêm!
————————-
Người thực hiện: Nguyễn Việt Hà
Tham vấn bởi: CVCC. Tô Thị Nhung
(Bản quyền tác giả và sở hữu chuyên đề thuộc về Công ty Luật TNHH Hợp Nhất)